chương 8:nền kinh tế mở

Chương 8: Nền kinh tế Mở

Harvey B. King


Từ trước đến giờ chúng ta chỉ mới nói đến xuất khẩu và nhập khẩu như là một nguồn của những cú sốc.


● Chúng ta chưa phân tích yếu tố nước ngoài ở mức độ chi tiết.


● Chúng ta chưa giải thích điều gì ảnh hưởng đến xuất khẩu ròng ở mức độ chi tiết, ngoại trừ việc nói tóm tắt về thu nhập của thế giới ảnh hưởng đến xuất khẩu của chúng ta, và thu nhập của chúng ta ảnh hưởng đến nhập khẩu của chúng ta.


● Bây giờ là lúc chúng ta phát triển một mô hình đầy đủ hơn về yếu tố nước ngoài.


● Đặc biệt, chúng ta sẽ tìm hiểu điều gì ảnh hưởng đến xuất khẩu ròng, và điều này tác động trở lại nền kinh tế như thế nào.


Chúng ta sẽ thấy rằng xuất khẩu ròng bị tác động mạnh mẽ bởi mức giá trong nước so với mức giá của thế giới, cũng như tỷ giá hối đoái giữa đồng đô la Canada và đồng đô la Mỹ.


● Điều này có nghĩa là chúng ta cũng cần giải thích điều gì tác động đến giá trị của tỷ giá hối đoái.


● Hơn nữa, như ở phần đầu đã nói, chúng ta cũng có thể thấy rằng Hiệp định Tự do Thương mại Bắc Mỹ (NAFTA) có tác động rất lớn đến việc thúc đẩy xuất khẩu nhập khẩu của chúng ta.


● Chúng ta cũng có thể thấy rằng thu nhập của Hoa Kỳ có ảnh hưởng đến xuất khẩu của chúng ta, và thu nhập của Canada ảnh hưởng đến nhập khẩu của chúng ta.


Trong Chương 4 chúng ta đã thấy rằng xuất khẩu và nhập khẩu là một phần quan trọng và đang tăng trưởng của sản xuất và tiêu dùng trong nước của nền kinh tế Canada, và chúng rất dễ biến động.


● Xuất khẩu chiếm phần trăm khá cao của tổng chi tiêu, từ năm 1981 là 18.8% đến năm 1995 là 38.8% (chúng ta có thể thấy được ảnh hưởng của NAFTA), với mức tăng trưởng giao động từ -2.1% đến +17.7%.


● Nhập khẩu chiếm phần trăm khá cao trong tổng chi tiêul, từ năm 1981 là 18.7% đến năm 1995 là 30.9%, với mức tăng trưởng giao động từ -15.2% đến +17.1%.


● Rõ ràng là chúng ta cần phải tìm hiểu các biến này, để hiểu được điều gì ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế Canada, đặc biệt để giải thích điều gì xảy ra trong một chu kỳ kinh tế.


● Như chúng ta sẽ thấy, hai chu kỳ kinh tế của chúng ta có mối liên hệ chặt chẽ với nhau - như lối nói hóm hỉnh rằng, khi nền kinh tế Hoa Kỳ bị hắt hơi, nền kinh tế Canada sẽ bị cảm.


● Hình 1 dưới đây chỉ ra tăng trưởng GDP thực tế của Canada và Hoa Kỳ từ 1983 đến 1998.


● Và chúng ta có thể thấy hai nền kinh tế này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.


● Với quy mô tương đối của mỗi nền kinh tế, chúng ta có thể đoán được mối quan hệ nhân quả xảy ra - những thay đổi trong GDP thực tế của Hoa Kỳ dẫn đến những thay đổi trong GDP thực tế của Canada.


● Một trong những nhiệm vụ của chúng ta là giải thích từng bước của quan hệ nhân quả này.


Hình 1



US Real GDP Growth: Tăng trưởng GDP thực tế của Hoa Kỳ


Canadian Real GDP Growth: Tăng trưởng GDP thực tế của Canada.


Trước khi tìm hiểu xem điều gì tác động đến xuất khẩu ròng, chúng ta hãy nói về cán cân thanh toán.


1) Cán cân Thanh toán.


Mỗi khi người dân Canada có một giao dịch với một người nước ngoài, có một dòng tiền chảy vào hoặc chảy ra khỏi lãnh thổ đất nước.


● Các cán cân thanh toán khác nhau xác định những giao dịch quốc tế này.


● Nếu người nước ngoài gửi tiền cho chúng ta nhiều hơn chúng ta gửi cho họ, thì Canada sẽ có cán cân thanh toán thặng dư.


● Nếu chúng ta tiêu nhiều hơn họ tiêu, thì Canada sẽ có cán cân thanh toán thâm hụt.


● Có ba loại tài khoản cán cân thanh toán - tài khoản hiện thời (vãng lai), tài khoản đầu tư, và tài khoản thanh toán chính thức.


Tài khoản hiện thời ghi chép



1. xuất khẩu ròng, nhóm lớn nhất,


2. thu nhập ròng từ đầu tư nước ngoài,


3. chuyển nhượng từ Canada ra nước ngoài và ngược lại.



● Nếu chúng ta bán ra nhiều hơn họ mua từ chúng ta, chúng ta sẽ thu được tiền ròng, và chúng ta sẽ có tài khoản hiện thời (tài khoản vãng lai: current account) thặng dư.


Tài khoản vốn (capital account) ghi chép những đầu tư mới vào Canada của người nước ngoài và đầu tư của người Canada ra nước ngoài.


● Nếu người nước ngoài đầu tư vào Canada nhiều hơn chúng ta đầu tư ra nước ngoài, chúng ta có tài khoản đầu tư thặng dư (bởi vì tiền chảy vào lãnh thổ Canada).


● Tài khoản thanh toán chính thức = thay đổi trong dự trữ ngoại hối - thay đổi trong đi vay chính thức.


● Cán cân thanh toán chính thức = -(tài khoản vốn + tài khoản vãng lai).


Rõ ràng la những cán cân thanh toán này được quyết định bởi những quyết định của người Canada và những người nước ngoài về việc họ sẽ mua của nhau bao nhiêu và họ sẽ đầu tư bao nhiêu.


● Nhiệm vụ tiếp theo của chúng ta là tìm hiểu một số yếu tố có ảnh hưởng đến những quyết định này.


2) Xuất khẩu Ròng


Xuất khẩu ròng = xuất khẩu - nhập khẩu.


● Xuất khẩu sẽ cao lên nếu a) chúng ta ký một hiệp định tự do thương mại, hoặc nếu b) GDP thực tế của Hoa Kỳ tăng lên, hoặc nếu c) tỷ giá hối đoái thực tế giảm xuống.


● Nhập khẩu sẽ tăng lên nếu a) chúng ta ký một hiệp định tự do thương mại, hoặc nếu b) GDP thực tế của Canada tăng lên, hoặc nếu c) tỷ giá hối đoái thực tế tăng lên.


● Những thay đổi trong các hiệp định tự do thương mại chỉ xảy ra hiếm khi, nên chúng ta không lo lắng quá nhiều về nó, và tác động của nó hầu như không có.


Lưu ý: có một bằng chứng kinh tế rõ ràng là mở cửa nền kinh tế đến tự do thương mại để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (LAS dịch chuyển sang phải nhanh hơn), nhưng nó lại có ít tác động đến AD.


● Những thay đổi trong GDP thực tế chúng ta đã tìm hiểu từ trước, và sẽ quay lại vấn đề nay sau.


● Tuy nhiên, chúng ta đã lập luận rằng xuất khẩu rằng sẽ tăng lên nếu tỷ giá hối đoái giảm, do đó chúng ta cần tìm hiểu tỷ giá hối đoái thực tế là gì.


Tỷ giá hối đoái thực tế là giá cả của hàng hoá Canada, so sánh với giá của hàng hoá nước ngoài, tính theo đơn vị tiền tệ nước ngoài:


Tỷ giá hối đoái thực tế = .



  • ER là tỷ giá ngoại tế (giá trị tính theo ngoại tệ của đồng đô la Canada C$) = số đơn vị ngoại tế cho mỗi C$ ( ví dụ 0.69 US$ một C$).

  • P là mức giá của Canada (giá trung bình của hàng hoá Canada), và Pf là giá cả của nước ngoài.

  • ER x P là giá cả của hàng hoá Canada tính theo ngoại tệ, do đó nó thể hiện mức độ đắt/rẻ của hàng hoá Canada so với hàng hoá nước ngoài.

  • Nếu bạn là một người nước ngoài đang quyết định liệu có nên mua hàng hoá Canada hay không, hoặc nếu bạn là một người Canada đang quyết định liệu rằng có mua hàng hoá của nước ngoài hay không, tỷ lệ này là yếu tố quan trọng trong việc đưa ra quyết định của bạn (với chi phí vận chuyển giữ nguyên, v.v..)

  • Do đó, để hiểu được xuất khẩu ròng, chúng ta cần tìm hiểu các yếu tố của tỷ giá hối đoái thực tế.

  • Từ phân tích trước đây của chúng ta trong Chương 3, chúng ta biết rằng P và Pf xuất phát từ sự tương tác giữa AD va SAS trong mỗi nước.

  • Tuy nhiên, chúng ta cần thêm thời gian để nói về giá trị của tỷ giá hối đoái được quyết định như thế nào.


  • 3) Tỷ giá Hối đoái và Thị trường Ngoại hối


    Để mua hầu hết các hàng hoá hoặc tài sản của Canada, những người nước ngoài phải dùng đồng đô la Canada - do đó, người nước ngoài muốn mua đô la Canada bằng ngoại tệ.


    ● Để mua hàng hoá hoặc tài sản của nước ngoài, người Canada phải dùng ngoại tệ - do đó, người Canada muốn mua ngoại tệ bằng đồng đô la Canada.


    ● Thị trường ngoại hối là nơi các bên cùng nhau thực hiện những giao dịch này.


    ● Thị trường ngoại hối đã phát triển rất cao, với sự vi tính hoá phức tạp, một thị trường hoạt động liên tục trên toàn thế giới.


    ● Đây chủ yếu là thị trường của các ngân hàng, các tổ chức tài chính, những nhà buôn, v.v..


    Ngoại hối là tiền ngoại tệ, bao gồm các khoản tiền gửi không kỳ hạn được mệnh giá bằng ngoại tệ.


    Tỷ giá hối đoái là giá trị của đồng đô la Canada được xác định theo đồng ngoại tệ.



    • Chúng ta thường tính theo đồng đô la Mỹ, đối tác thương mại chính của chúng ta và, là đồng tiền gần với thế giới tiền tệ nhất - khoảng 85% xuất khẩu của chúng ta và 80% nhập khẩu của chúng ta đều đến Hoa Kỳ.

    • Bảng dưới đây thể hiện hai loại tỷ giá khác nhau, vào hai tháng khác nhau.























    • Tháng 2.1999Tháng 2.2000

      =

      Ca $ mỗi US$

      1.497

      1.451

      ER =

      US$ mỗi Ca$

      0.668

      0.689


      ● Trong tháng Hai. 2000, mất 1.451 đô la Canada (C$) để mua 1 đô la Mỹ (US$). Mất 0.689 US$ để mua một C$.


      ● Giá trị thứ hai (ER) thường được đăng tải trên báo chí, và là giá trị chúng ta sử dụng trong phân tích.


      Lưu ý rằng nếu đồng đô la Canada có giá hơn, thì nó tăng giá, và giá trị của ER tăng lên, như trong khoảng thời gian 1999 và 2000


      ● Một mặt, nếu đồng đô la Canada giảm giá, thì giá trị của ER giảm.


      ● Nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá đảm bảo rằng hai tỷ giá này ER và phù hợp với nhau, và bất cứ tỷ giá nào trong ba tỷ giá ( ví dụ như đồng đô la Canada, đồng đô la Mỹ, đồng Mark Đức) phù hợp với nhau.


      Hình 2


      US$ tính theo mỗi C$






      Hình 2 trên đây trình bày những biến động của giá trị đồng C$ từ năm 1995.


      ● Rõ ràng sự biến động lên xuống khá lớn, và chúng ta cần tìm hiểu điều gì gây nên sự biến động này.


      ● Giá trị thực tế của tỷ giá hối đoái được quyết định bởi cung và cầu trong trị trường đồng đô la Canada.


      ● Có hai loại thị trường tương ứng với nhau.


      Thị trường giao ngay là thị trường của các giao dịch vãng lai, việc thanh toán được thực hiện trong phạm vi một hoặc hai ngày.


      Thị trường kỳ hạn là thị trường mà việc thanh toán được thực hiện vào một thời gian nào đó trong tương lai - và trong khoá học này chúng ta sẽ không đề cập đến thị trường này.


      Thị trường giao ngay gồm ba loại:


      Tỷ giá thả nổi hay tỷ giá linh hoạt, hoàn toàn được xác định theo cung và cầu đối với đồng đô la Canada. Giá trị của tỷ giá hối đoái có thể giao động khá lớn khi cung và cầu giao động, thậm chí là trong một ngày.


      Tỷ giá cố định, ở đó tỷ giá được xác định bởi ngân hàng trung ương, và nó thay đổi rất hiếm khi. Ở Canada giữa năm 1962 và 1970, giá trị của đồng đô la Canada được duy trì ở mức 0.925 US$/ C$.


      Tỷ giá thả nổi có quản lý hay thả nổi trá hình, ở đó tỷ giá hối đoái được xác định dựa trên cung và cầu, nhưng khi ngân hàng trung ương can thiệp để ngăn chặn hoặc làm giảm những thay đổi lớn, hoặc là cố gắng thay đổi tỷ giá hối đoái - ví dụ như ở Canada hiện nay.


      Hình 3 (a) dưới đây trình bày thị trường tỷ giá hối đoái linh hoạt - sự tương tác giữa cung và cầu xác định giá trị của tỷ giá hối đoái.


      ● Trong ví dụ đã chỉ ra, sự tăng lên nhu cầu đồng đô la Canada dẫn đến sự điều chỉnh tăng giá trị của nó, v.v..


      ● Hình 3 (b) dưới đây chỉ ra thị trường tỷ giá cố định, với một tỷ giá mục tiêu ER*.



      ● Ở đây ngân hàng trung ương duy trì tỷ giá hối đoái cố định bằng cách điều chỉnh những sự dịch chuyển trong cung hoặc cầu để duy trì tủ giá hối đoái được cố định.


      ● Ví dụ, khi nhu cầu đồng C$ tăng lên, ngân hàng trung ương cung ứng ra một lượng tiền vào thị trường ngoại hối để duy trì tỷ giá hối đoái cố định.


      Lưu ý rằng việc tăng một lượng tiền vào thị trường ngoại hối cũng làm tăng cung ứng tiền trong nước - DMS > 0.


      ● Đây là một vấn đề quan trọng mà chúng ta sẽ nói đến vào sau này.


      Hình 3



      Lưu ý rằng trong tỷ giá thả nổi có quản lý, ngân hàng trung ương sẽ nhắm vào việc giảm ảnh hưởng của những dịch chuyển trong cung hoặc cầu về tiền, nhưng chỉ tác động một phần.


      ● Trong trường hợp này, tỷ giá hối đoái thay đổi giá trị, nhưng chỉ một phần, chứ không phải toàn bộ tương ứng với sự dịch chuyển đó - chúng ta sẽ trở lại vấn đề này sau.


      Hiện tại, chúng ta tập trung vào trường hợp (a), trường hợp tỷ giá hối đoái linh hoạt.


      ● Chúng ta cần giải thích điều gì ảnh hưởng đến cầu và cung đồng đô la Canada để có thể giải thích được điều gì ảnh hưởng đến giá trị của tỷ giá hối đoái trong thị trường linh hoạt.


      ● Chúng ta có hai lý thuyết về tỷ giá hối đoái; lý thuyết dài hạn và lý thuyết ngắn hạn.


      4) Sự quyết định của Tỷ giá Hối đoái Dài hạn: Sức mua Ngang bằng.


      Lập luận này chủ yếu dựa trên một loại kinh doanh chênh lệch giá tập trung xung quanh hàng hoá.



      • Kinh doanh chênh lệch giá là việc mua vào với giá thấp và bán ra với giá cao để hưởng lợi nhuận.

      • Hãy đặt bạn vào tình huống một người đang quyết định mua hàng hoá nước ngoài hoặc hàng hoá Canada (một người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu).

      • Chúng ta giả sử:




      • 1. mọi hàng hoá là đồng nhất


        2. mọi hàng hoá được mua bán hết


        3. không có chi phí vận chuyển, và không có thuế quan v.v.





        • Trong trường hợp này, để quyết định giữa các hàng hoá, bạn sẽ chỉ xem xét đến giá cả của hàng hoá Canada so với hàng hoá nước ngoài.


        • Giả sử bạn là một người Mỹ đang cần quyết định lựa chọn giữa hàng hoá của Mỹ và Canada, và bạn sẽ mua hàng của Canada nếu:


          P (hàng hoá Canada tính theo đồng US$) <>

          P x ER <>f, hoặc nếu


          (giá tính theo C$ x US$/C$) < (Giá tính theo US$)


          (P x ER)/Pf <>

          Điều này cho chúng ta biết được cái gì yếu tố nào ảnh hưởng đến nhu cầu đối với hàng hoá của Canada, và do đó là nhu cầu đối với đồng đô la Canada trong dài hạn (lập luận tương tự cũng có thể suy ra đối với cung đồng C$).


          ● Nhu cầu đồng đô la Canada sẽ tăng lên nếu tỷ giá hối đoái thực tế giảm xuống, hoặc nếu:


          ● Giá trị của tỷ giá hối đoái giảm xuống (ER giảm giá trị).


          ● Mức giá cả ở Canada giảm đi.


          ● Mức giá cả ở Mỹ tăng lên.


          LƯU Ý:


          1) Theo lý thuyết sức mua ngang bằng bất đẳng thức trên không đúng mãi trong mọi trường hợp.


          ● Giả sử rằng bất đẳng thức trên đúng trong trường hợp (P x ER)/Pf <>

          ● Trong trường hợp này, những người nước ngoài và người Canada sẽ chuyển nhu cầu từ hàng hoá của Mỹ sang hàng hoá của Canada.


          ● Sự thay đổi này dẫn đến lãi suất thực tế có xu hướng trở lại 1 vì:



          • Nhu cầu hàng hoá Canada ­ Þ P ­.

          • Nhu cầu đối với hàng hoá Mỹ ¯ Þ Pf ¯.

          • Nhu cầu đối với đồng C$ ­, và nếu tỷ giá hối đoái là linh hoạt, điều này sẽ dẫn đến sự điều chỉnh tăng của đồng C$, cũng có nghĩa là ER tăng.


          ● Cả ba hoạt động trên sẽ dẫn đến tỷ giá hối đoái thực tế sẽ hướng về 1về mặt lý thuyết.


          2) Lý thuyết PPP (purchasing power parity: sức mua ngang bằng) cho rằng kinh doanh chênh lệch giá trong thị trường hàng hoá dẫn đến đẳng thức sau đây đúng:


          Pf = P x ER hoặc nếu (P x ER)/Pf = 1


          ● Trong thực nghiệm, lý thuyết sức mua ngang bằng không đúng một cách hoàn hảo do thực tế còn tồn tại những điều mà chúng ta đã giả định là không có:


          1. những loại hàng hoá không thể mua bán được như là dịch vụ.


          2. Các hàng hoá không đồng nhất.


          3. chi phí vận chuyển, thuế quan, hạn ngạch.


          ● TUY NHIÊN, nó vẫn thể hiện một xu hướng mạnh mẽ trong thị trường - tỷ giá hối đoái có xu hướng trở lại giá trị mà ở đó tỷ giá hối đoái thực tế = 1.


          ● Hình 4 dưới đây mô tả diễn biến của tỷ giá hối đoái thực tế trong vòng 20 năm qua - chúng ta có thể thấy nó hầu như giao động xung quanh giá trị 1.


          ● Chúng ta cũng có thể thấy tỷ giá hối đoái thực tế có tác động mạnh như thế nào đối với xuất khẩu ròng - khi tỷ giá hối đoái thực tế giảm xuống dưới 1, xuất khẩu ròng tăng (như trong thời gian gần đây), va khi tỷ giá hối đoái thực tế tăng trên 1, xuất khẩu ròng giảm xuống (trong những năm trước, trong và sau 1990).


          Hình 4 Tỷ giá hối đoái thực tế (C$ so với US$)



          Real Exchange Rate: Tỷ giá hối đoái thực tế


          Net Exports as a percent of GDP: Xuất khẩu ròng tính theo phần trăm GDP


          5) Sự quyết định của Tỷ giá Hối đoái trong Ngắn hạn: Kinh doanh Chênh lệch Lãi suất


          Trong ngắn hạn, người ta thừa nhận lập luận sau đối với thị trường ngoại hối: có thể tạo ra lợi nhuận đối với dòng tiền ngắn hạn do có sự chênh lệch lãi suất.


          ● Thị trường ngoại hối có một dòng tiền lớn dịch chuyển hàng ngày: 1.5 nghìn tỉ US$ năm 1998.


          ● Do chi phí giao dịch thấp, kinh doanh chênh lệch giá diễn ra nhanh chóng và hiệu quả - hàng tỷ đô la được dịch chuyển ngay lập tức để có được phần trăm nhỏ lợi nhuận.


          ● Những dòng tiền này ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường ngoại hối trong ngắn hạn - chúng lớn hơn rất nhiều dòng tiền sử dụng để trao đổi hàng hoá và dịch vụ.


          ● Để thấy được điều này diễn ra như thế nào, chúng ta hãy xem xét một ví dụ về một người đang quyết định đầu tư vào một nước nào đó.


          Chúng ta có các định nghĩa sau:


          rC = lãi suất danh nghĩa ở Canada.


          rf = lãi suất danh nghĩa ở quốc gia nước ngoài.


          ● Bởi vì chúng ta đang nói về một người đang đầu tư ra nước ngoài, chúng ta cần nói về mức thay đổi kỳ vọng của tỷ giá hối đoái.


          ● ER (=đồng ngoại tệ/C$) là giá trị của tỷ giá hối đoái ngày nay, và chúng ta có thể định nghĩa ERe là tỷ giá hối đoái kỳ vọng của Canada trong một năm.


          ● Phần trăm thay đổi kỳ vọng của tỷ giá hối đoái sẽ là = .


          Giả sử bạn là nhà đầu tư nước ngoài đang xem xét việc mua trái phiếu Canada.


          ● Giả sử ở hiện tại các yếu tố rủi ro là giống như nhau giữa hai nước, khi đó điều bạn quan tâm là lợi nhuận bạn thu được được xác định theo đồng tiền nước bạn.


          ● Bạn sẽ kiếm được rC đô la Canada sau một năm, nhưng bạn phải chuyển số tiền này ra ngoại tệ, do đó lãi suất ước tính mà bạn kỳ vọng có được theo ngoại tệ sẽ là rC + %DERe.


          ● Bạn sẽ so sánh giá trị này với lợi nhuận thu được từ việc đầu tư trong nước của bạn, và bỏ qua chi phí giao dịch, bạn sẽ mua trái phiếu Canada (và do đó sẽ mua đô la Canada) nếu:


          , hoặc nếu


          , hoặc nếu


          - sự điều chỉnh tăng kỳ vọng của đồng C$


          Bạn sẽ chỉ đầu tư ở Canada nếu bạn cho rằng lãi suất bằng với ở nước ngoài, trừ đi sự điều chỉnh để bù đắp cho sự tăng kỳ vọng đồng C$.


          ● Điều này giúp chúng ta thấy được yếu tố nào ảnh hưởng đến nhu cầu đồng C$ trong ngắn hạn.


          ● Lãi suất đồng đô la Canada tăn lên, so với lãi suất ở nước ngoài, thì nhu cầu đối với tài sản ở Canada cũng tăng và do đó là nhu cầu đối với đồng C$ tăng.


          ● Sự điều chỉnh tăng kỳ vọng đối với đồng C$ tăng lên, làm cho nhu cầu đối với tài sản của Canada tăng lên và do đó nhu cầu đồng C$ tăng.


          Lưu ý rằng chừng nào sự chênh lệch lãi suất còn tồn tại, cơ hội lợi nhuận không rủi ro vẫn tồn tại.


          ● Những người kinh doanh chênh lệch giá có thể vay tiền ở nước ngoài, và cho vay ở Canada để hưởng chênh lệch lãi suất.


          ● Tuy nhiên, hành động của những nhà kinh doanh chênh lệch giá gây ra những áp lực đối với thị trường và tự động loại bỏ sự mất cân bằng, loại bỏ cơ hội lợi nhuận:


          i) Trước hết, họ cho vay ở Canada, đẩy cung ứng vốn tăng lên, do đó đẩy lãi suất ở Canada xuống.


          ii) Thứ hai, họ vay tiền ở thị trường nước ngoài, đẩy nhu cầu vốn của thị trường này tăng lên, và đẩy lãi suất ở nước ngoài tăng lên.


          iii) Thứ ba, họ bán những đồng đô la ở thị trường giao ngay (tăng cung), điều này tạo ra xu hướng làm giảm mức giá của chúng hay đẩy ER giảm xuống, và đẩy %DERe tăng lên.


          Rõ ràng những hoạt động kinh doanh chênh lệch giá này làm đảo ngược sự mất cân bằng.


          ● Thực tế, kinh doanh chênh lệch giá sẽ nhanh chóng dẫn đến những điều kiện sau đây trong thị trường:



          ● Chúng ta gọi đây là điều kiện lãi suất ngang bằng không được bảo hiểm.


          ● Điều kiện này nói rằng lãi suất ở Canada bằng lãi suất ở nước ngoài cộng với sự thay đổi kỳ vọng trong giá trị đông ngoại tệ.


          ● Nếu đồng ngoại tệ được kỳ vọng tăng giá trị, và đồng đô la Canada được kỳ vọng giảm giá trị, thị mọi người phải được bù đắp bằng lãi suất đồng đô la Canada cao hơn.


          Lưu ý:


          Lý thuyết này mô tả một xu hướng của thị trường.


          ● Nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng chi phí giao dịch và khó khăn trong việc đi vay có nghĩa là làm cho này chỉ đúng một cách ước lượng.


          ● Tuy nhiên, nó là một công cụ hiệu quả để tìm hiểu cầu và cung ngắn hạn đồng đô la Canada.


          6) Đường IS dưới Cơ chế Tỷ giá Linh hoạt.


          Bây giờ chúng ta có thể nhận thấy rằng bên cạnh những ảnh hưởng của IS do lãi suất thay đổi làm thay đổi I, một sự thay đổi lãi suất tạo ra .


          ● Do đó, chúng ta có một hiệu ứng bổ sung, và đường IS sẽ ít cong (thẳng) hơn trong cơ chế tỷ giá linh hoạt.


          ● Chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng những thay đổi trong thu nhập của thế giới sẽ làm thay đổi xuất khẩu ròng của chúng ta, và dịch chuyển đường IS - ví dụ, nếu thu nhập của thế giới tăng, thì xuất khẩu ròng tăng, đường IS dịch chuyển sang phải.


          Yếu tố này cho chúng ta biết được tại sao và bằng cách nào chu kỳ kinh tế ở Hoa Kỳ tác động đến Canada.


          ● Chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng những thay đổi trong tỷ giá hối đoái thực tế cũng sẽ dịch chuyển đường IS - tỷ giá hối đoái thực tế tăng lên sẽ làm giảm xuất khẩu ròng và dịch chuyển đường IS sang phải.


          ● Chúng ta cũng có thể nhận thấy, nền kinh tế càng mở và sự nhạy cảm của tỷ giá hối đoái thực tế đối với những thay đổi trong lãi suất càng lớn (sự linh hoạt trong dòng vốn tài chính giữa các nước càng lớn), chính sách tiền tệ càng mạnh, chính sách tài chính càng yếu trong tác động đến AD.


          Chính sách tài chính


          Một chính sách tài chính mở rộng làm dịch chuyển đường IS sang phải, và làm tăng GDP thực tế và r.


          ● Sự tăng lên của r sẽ chèn lấn đầu tư tư nhân, nhưng nó cũng làm tăng sự khác nhau giữa lãi suất giữa Canada và phần còn lại của thế giới (rC - rf tăng lên).


          ● Sự tăng lên của sự chênh lệch lãi suất làm tăng nhu cầu đồng đô la Canada, điều này lại tăng tỷ giá hối đoái danh nghĩa trong cơ chế tỷ giá linh hoạt, và làm tăng tỷ giá hối đoái thực tế và chèn lấn xuất khẩu ròng.


          ● Ảnh hưởng của lãi suất lên tỷ giá hối đoái càng tăng lên, sự chèn lấn quốc tế lên xuất khẩu ròng càng tăng.


          ● Chính sách tài chính yếu đi trong cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt, so với mô hình kinh tế đóng đơn giản trong chương 6 - đường AD dịch chuyển sang phải với một lượng nhỏ hơn.


          Chính sách tiền tệ


          Một chính sách tiền tệ mở rộng làm dịch chuyển đường LM sang phải, và làm tăng GDP thực tế và giảm r (lưu ý vào hiệu ứng ngược lại)


          ● Sự giảm xuống của r sẽ làm tăng đầu tư tư nhân, nhưng nó cũng làm giảm sự chênh lệch lãi suất giữa Canada và phần còn lại của thế giới, làm giảm nhu cầu của đồng đô la Canada.


          ● Điều này đến lượt nó làm giảm tỷ giá hối đoái danh nghĩa, và làm giảm tỷ giá hối đoái thực tế và tăng xuất khẩu ròng.


          ● Ảnh hưởng của lãi suất lên tỷ giá hối đoái càng lớn, thì xuất khẩu ròng cũng tăng mạnh hơn.


          ● Chính sách tiền tệ có tác dụng mạnh hơn trong cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt, so với mô hình kinh tế đóng trong chương 6 - đường AD dịch chuyển sang phải một lượng lớn hơn.


          Chúng ta đã kiểm tra


          ● Điều gì ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn và dài hạn trong tỷ giá hối đoái linh hoạt.


          ● Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng thế nào đối với tổng cầu và mức giá trong ngắn hạn với cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt.


          NHƯNG, ở Canada chúng ta có một thị trường thả nổi có quản lý, và do đó một số những kết quả này phải được điều chỉnh - chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc xem xét tỷ giá hối đoái cố định trong phần tiếp theo.


          7) Tỷ giá Hối đoái Cố định


          Trong quá khứ Canada duy trì một cơ chế tỷ giá hối đoái cố định, và ở nhiều nước hiện này cũng duy trì hiện tượng này.


          ● Do đó nghiên cứu nó sẽ giúp ích rất nhiều trong việc tìm hiểu những nền kinh tế này.


          ● Bên cạnh đó, để hiểu được một cơ chế thả nổi có quản lý chúng ta cũng cần tìm hiểu cơ chế tỷ giá cố định.


          Duy trì Tỷ giá Hối đoái Cố định


          Ở đây, ngân hàng trung ương cố định tỷ giá hối đoái ở mức ER*, và điều chỉnh việc cung ứng đồng đô la Canada để duy trì tỷ giá này cố định, như chỉ ra dưới đây.


          Hình 5.



          ● Nếu nhu cầu đồng đô la Canada tăng lên, điều này sẽ dẫn đến tăng giá trị đồng C$, nhưng bằng việc cung ra một lượng tương ứng, ngân hàng trung ương mua hết số ngoại hối được chào bán, và duy trì đồng C$ ổn định.


          ● Nếu nhu cầu đồng đô la Canada giảm xuống, điều này dẫn đén giảm giá trị đồng C$, nhưng bằng việc giảm cung một lượng tương ứng, ngân hàng trung ương mua hết số C$ được chào bán, và duy trì giá trị của nó ổn định.


          LƯU Ý


          1) Nhà nước nắm một lượng lớn đồng USD (và vàng) dữ trữ đặc biệt cho mục đích này, và lượng tiền này được quản lý bởi ngân hàng trung ương Canada.


          2) Với một tỷ giá cố định, ngân hàng trung ương buộc phải tạo ra một gia số D MS để duy trì nó cố định, như chúng ta sẽ thấy:


          ● Ví dụ, nếu nhu cầu đồng C$ tăng, và ngân hàng trung ương mua hết số ngoại hối được chào bán và cung ứng đồng C$, thì DMS>0.


          ● Điều này có một tác động quan trọng - đường LM hầu như không xuất hiện.


          3) Chính sách này tự bản thân nó không phải là tốt, để tránh sự biến động không ngừng của đồng đô la Canada, Ngân hàng Canada phải duy trì lãi suất ở Canada bằng với lãi suất ở Mỹ.


          ● Chúng ta có thể thấy được điều này một cách dễ dàng từ điều kiện lãi suất ngang bằng:


          rC = rf - sự điều chỉnh tăng kỳ vọng đồng C$


          ● Nếu tỷ giá hối đoái thực sự cố định, thì sẽ không có sự kỳ vọng việc điều chỉnh tăng, và điều kiện lãi suất ngang bằng thể hiện rằng rC = rf.


          ● Để tìm hiểu điều gì xảy ra, chúng ta giả sử rC <>f.


          ● Khi đó mọi người có thể kiếm lời bằng cách đi vay ở Canada và cho vay ở nước ngoài.


          ● Mọi người sẽ cố gắng chuyển đồng đô la Canada sang đồng USD.


          ● Ngân hàng trung ương mua hết số C$ được chào bán, sử dụng hết số US$ mà ngân hàng trung ương dự trữ.


          ● Điều này có nghĩa là Ngân hàng Canada đưa một lượng tiền ra khỏi lưu thông - DMS <>

          ● Chính sách tiền tệ thắt chặt này sẽ làm tăng lãi suất ở Canada, đẩy lãi suất ở Canada tăng lên đến mức lãi suất ở Hoa Kỳ.


          Chính sách Tiền tệ trong Cơ chế Tỷ giá Cố định


          Chính sách tiền tệ ở Canada được ban hành ra để duy trì tỷ giá hối đoái cố định, và không thể được sử dụng cho mục đích nội địa.


          ● Nó không thể được sử dụng như là một mũi tên trúng hai đích, trừ phi chúng phù hợp với nhau.


          ● Do đó chúng ta có sơ đồ IS-LM sau đây.


          Hình 6



          ● Đường IRP chỉ kết quả của lãi suất ngang bằng - lãi suất được cố định tại mức lãi suất của Hoa Kỳ.


          ● Đường LM điều chỉnh để đạt sự cân bằng cần thiết tại Y1.


          ● Để hiểu rõ, giả sử rằng chúng ta khởi đầu với đường IS và LM0, với một tỷ giá cố định.


          ● Ngân hàng Canada cố gắng tăng cung ứng tiền, dịch chuyển đường LM sang phải tại LM1.


          ● rC <>f, dẫn đến giảm nhu cầu đồng C$, dẫn đến dư cung đồng đô la Canada trên thị trường ngoại hối, gây ra áp lực giảm giá trị đối với đồng C$.


          ● Ngân hàng Canada cung ra một lượng ngoại hối cần thiết, mua hết số C$ dư để cho tỷ giá hối đoái được ổn định.


          ● Cung ứng đồng C$ giảm xuống, đường LM dịch chuyển sang trái, VÀ lãi suất tăng lên, cho đến khi chúng ta có được r = rf, tại đó IS và IRP cắt nhau.


          Dưới cơ chế tỷ giá cố định, chính sách tiền tệ không thể làm dịch chuyển đường AD.


          ● Thực tế, trong cơ chế này, vì rC = rf, chúng ta chủ yếu thực hiện chính sách tiền tệ "nhập" đối với các đối tác thương mại chủ yếu.


          Chính sách Tài chính dưới Cơ chế Tỷ giá Cố định.


          Mặc dù chính sách tiền tệ hầu như không có tác dụng trong cơ chế tỷ giá cố định, thì chính sách tài chính lại có tác động hơn, bởi vì không có sự chèn lấn.


          Hình 7



          ● Ở đây, nếu tỷ giá hối đoái là linh hoạt, sự tăng lên trong chi tiêu của chính phủ làm ngừng trệ sự tăng lên của r, và chúng ta chuyển đến một điểm cân bằng mới Y2 dọc theo đường LM.


          ● Với một tỷ giá hối đoái cố định, sự tăng lên r gây ra sự tăng lên nhu cầu đồng C$, mà điều này làm tăng cung ứng tiền, dẫn đến dịch chuyển LM sang LM1, và duy trì lãi suất cố định, do đó điểm cân bằng mới Y3 > Y2.


          Trong cơ chế tỷ giá cố định, không có sự chèn lấn, chính sách tài chính làm dịch chuyển đường AD bởi một lượng lớn hơn, so với nền kinh tế đóng.


          8) Cơ chế được Quản lý hay Thị trường Trá hình


          Đây là một trường hợp có tính trung gian hơn, ở đó ngân hàng trung ương từng bước giảm những biến động giá trị của đồng C$, nhưng lại không duy trì nó cố định một cách hoàn toàn.


          ● Ví dụ, như chỉ ra trong Hình 8 dưới đây, chúng ta có thể thấy ứng xử gần đây của ngân hàng trung ương, họ bỏ ra hàng tỷ đô la Mỹ để làm giảm việc giảm giá trị của đồng đô la Canada trong cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997.


          ● Kết quả là có một sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái được điều chỉnh bởi những hoạt động của ngân hàng trung ương.


          Hình 8



          Kết quả của việc thả nổi có quản lý là một chính sách phụ thuộc vào chính sách của Hoa Kỳ đối với một mức độ trung gian, phụ thuộc vào hai yếu tố:


          ● Sự nhạy cảm (khuyến khích) về nhu cầu của đồng C$ đối với sự chênh lệch lãi suất giữa hai nước.


          ● Mong muốn của Ngân hàng Canada như thế nào trong việc cho phép tỷ giá giảm xuống?


          ● Ngân hàng trung ương càng can thiệp, thì chúng ta càng tiến gần đến chính sách tỷ giá cố định.


          ● Sức mạnh của chính sách tiền tệ và chính sách tài chính cũng bị quyết định bởi mức độ can thiệp này.


          9) Nghiên cứu Tình huống: Cuộc khủng hoảng Châu Á.


          Một vấn đề với tỷ giá hối đoái cố định và có quản lý là nếu bạn cố định đồng C$ so với đồng US$, bạn đang điều chỉnh chính sách tiền tệ của họ, điều này có thể là không phù hợp.


          ● Một tỷ giá linh hoạt có thể bảo vệ hay cô lập bạn khỏi các những vấn đề của các nước khác - lạm phát hoặc suy thoái.


          ● Chúng ta hãy xem xét điều gì xảy ra sau cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997-1998.


          Thu nhập của người châu Á giảm đáng kể, và nhu cầu của họ đối với xuất khẩu của chúng ta giảm, đặc biệt là hàng xuất khẩu (hàng gỗ, thép, than, cá, v.v..)


          ● Cú sốc này dịch chuyển đường IS sang trái, và do đó cũng dịch chuyển đường AD sang trái, và dẫn đến áp lực suy thoái ở Canada. (lưu ý về nhập khẩu của chúng ta khi có sự suy thoái ở nước ngoài).


          ● Có sự sụt giảm đối với nhu cầu đồng đô la Canada.


          ● Nếu chúng ta có chính sách thả nổi trá hình hoặc chính sách tỷ giá cố định, thì việc giảm nhu cầu đồng C$ dẫn đến giảm cung ứng tiền để duy trì tỷ giá cố định, điều này làm tăng lãi suất trong nước đến rf, và gây tổn hại đến những khó khăn trong nước.


          ● Chúng ta có một cú sốc lớn hơn được chỉ ra trong Hình 9, kết thúc tại Y1, với một sự giảm mạnh GDP thực tế trong ngắn hạn, mức giá vẫn giữ nguyên.



          ● Nếu tỷ giá linh hoạt, thì sự giảm xuống nhu cầu đồng C$ dẫn đến sự điều chỉnh giảm của tiền tệ (không có gia số trong cung ứng tiền), điều này đến lượt nó lại dẫn đến tăng lên xuất khẩu ròng để bù đắp lại mức độ nào đó sự sụt giảm ban đầu từ sự suy thoái của thế giới - chúng ta kết thúc tại Y thay vì Y1, với một cú sốc tiêu cực nhỏ hơn.


          Chúng ta rõ ràng nhận ra một vài ý tưởng hạn chế việc tiền tệ gây ra những vấn đề khi so với việc để tiền tệ điều chỉnh, bằng cách so sánh điều gì xảy ra ở Canada so với New Zealand, Na Uy, Ác hen ti na trong Cuộc khủng hoảng Châu Á 1997-1998.



Read Users' Comments (0)

0 Response to "chương 8:nền kinh tế mở"

Đăng nhận xét